×

سورة الحجر باللغة الفيتنامية

ترجمات القرآنباللغة الفيتنامية ⬅ سورة الحجر

ترجمة معاني سورة الحجر باللغة الفيتنامية - Vietnamese

القرآن باللغة الفيتنامية - سورة الحجر مترجمة إلى اللغة الفيتنامية، Surah Hijr in Vietnamese. نوفر ترجمة دقيقة سورة الحجر باللغة الفيتنامية - Vietnamese, الآيات 99 - رقم السورة 15 - الصفحة 262.

بسم الله الرحمن الرحيم

الر ۚ تِلْكَ آيَاتُ الْكِتَابِ وَقُرْآنٍ مُّبِينٍ (1)
Alif. Lam. Ra. Đây là những Câu của một Kinh Sách và là quyển Qur'an minh bạch
رُّبَمَا يَوَدُّ الَّذِينَ كَفَرُوا لَوْ كَانُوا مُسْلِمِينَ (2)
Lắm lúc những kẻ không tin tưởng mong ước phải chi họ trở thành người Muslim
ذَرْهُمْ يَأْكُلُوا وَيَتَمَتَّعُوا وَيُلْهِهِمُ الْأَمَلُ ۖ فَسَوْفَ يَعْلَمُونَ (3)
Ngươi (Muhammad) hãy để mặc họ ăn uống và hưởng thụ. Và hãy để cho niềm hy vọng (hảo huyền) đánh lừa họ; rồi đây họ sẽ sớm biết
وَمَا أَهْلَكْنَا مِن قَرْيَةٍ إِلَّا وَلَهَا كِتَابٌ مَّعْلُومٌ (4)
Và không bao giờ TA tiêu diệt một thị trấn mà lại không (báo trước) Sắc Chỉ qui định
مَّا تَسْبِقُ مِنْ أُمَّةٍ أَجَلَهَا وَمَا يَسْتَأْخِرُونَ (5)
Không một cộng đồng nào có thể ra đi sớm hơn hạn định của nó và cũng không được ở lại trễ
وَقَالُوا يَا أَيُّهَا الَّذِي نُزِّلَ عَلَيْهِ الذِّكْرُ إِنَّكَ لَمَجْنُونٌ (6)
Và họ lên tiếng bảo: "Này hỡi người nhận Thông Điệp, chắc chắn ngươi là một tên điên
لَّوْ مَا تَأْتِينَا بِالْمَلَائِكَةِ إِن كُنتَ مِنَ الصَّادِقِينَ (7)
Tại sao ngươi không đưa những Thiên Thần xuống gặp bọn ta, nếu ngươi là một người nói thật
مَا نُنَزِّلُ الْمَلَائِكَةَ إِلَّا بِالْحَقِّ وَمَا كَانُوا إِذًا مُّنظَرِينَ (8)
TA (Allah) phái các Thiên Thần xuống chỉ với lý do chính đáng. Và lúc đó chúng sẽ không còn được triển hạn nữa
إِنَّا نَحْنُ نَزَّلْنَا الذِّكْرَ وَإِنَّا لَهُ لَحَافِظُونَ (9)
Quả thật, TA đã ban Thông Điệp nhắc nhở (Qur'an) xuống và chính TA sẽ bảo quản Nó
وَلَقَدْ أَرْسَلْنَا مِن قَبْلِكَ فِي شِيَعِ الْأَوَّلِينَ (10)
Và quả thật, trước Ngươi (Muhammad) TA đã cử các Sứ Giả đến cho những giáo phái của thời xưa
وَمَا يَأْتِيهِم مِّن رَّسُولٍ إِلَّا كَانُوا بِهِ يَسْتَهْزِئُونَ (11)
Và không một Sứ Giả nào được cử đến với họ mà lại không bị chế giễu
كَذَٰلِكَ نَسْلُكُهُ فِي قُلُوبِ الْمُجْرِمِينَ (12)
Nhưng TA làm cho nó len lỏi vào tấm lòng của những kẻ tội lỗi đúng như thế
لَا يُؤْمِنُونَ بِهِ ۖ وَقَدْ خَلَتْ سُنَّةُ الْأَوَّلِينَ (13)
Họ không tin nơi Nó ( Qur’an) và âu đó là lề lối của những kẻ đã qua (đời) trước họ
وَلَوْ فَتَحْنَا عَلَيْهِم بَابًا مِّنَ السَّمَاءِ فَظَلُّوا فِيهِ يَعْرُجُونَ (14)
Và dù cho TA có mở cho họ một cánh cửa của bầu trời để họ tiếp tục lên đó suốt ngày
لَقَالُوا إِنَّمَا سُكِّرَتْ أَبْصَارُنَا بَلْ نَحْنُ قَوْمٌ مَّسْحُورُونَ (15)
Thì họ vẫn lên tiếng bảo: “Bọn ta bị quáng mắt. Không, bọn ta là đám người bị tà thuật mê hoặc.”
وَلَقَدْ جَعَلْنَا فِي السَّمَاءِ بُرُوجًا وَزَيَّنَّاهَا لِلنَّاظِرِينَ (16)
Và quả thật TA đã làm ra các chùm sao trên trời để tô điểm nó xinh đẹp cho những người ngắm nhìn
وَحَفِظْنَاهَا مِن كُلِّ شَيْطَانٍ رَّجِيمٍ (17)
Và TA bảo vệ nó khỏi bị từng tên Shaytan đáng bị tống cổ (len lỏi đột nhập)
إِلَّا مَنِ اسْتَرَقَ السَّمْعَ فَأَتْبَعَهُ شِهَابٌ مُّبِينٌ (18)
Nếu có tên nào lén nghe trộm (tin tức) thì sẽ bị một chùm lửa đỏ rực rượt đánh
وَالْأَرْضَ مَدَدْنَاهَا وَأَلْقَيْنَا فِيهَا رَوَاسِيَ وَأَنبَتْنَا فِيهَا مِن كُلِّ شَيْءٍ مَّوْزُونٍ (19)
Và TA đã trải rộng mặt đất (như một tấm thảm) mà TA đặt lên đó những quả núi vững chắc và cho mọc đủ loại cây trái theo cân lượng quân bình
وَجَعَلْنَا لَكُمْ فِيهَا مَعَايِشَ وَمَن لَّسْتُمْ لَهُ بِرَازِقِينَ (20)
Và nơi đó, TA đã làm ra phương tiện sinh sống cho các ngươi và cho cả ai (sinh vật) mà các ngươi không có nhiệm vụ cung dưỡng
وَإِن مِّن شَيْءٍ إِلَّا عِندَنَا خَزَائِنُهُ وَمَا نُنَزِّلُهُ إِلَّا بِقَدَرٍ مَّعْلُومٍ (21)
Và không một vật gì mà kho tài nguyên lại không nằm nơi TA nhưng TA chỉ ban nó (thiên lộc) xuống theo định lượng rõ rệt
وَأَرْسَلْنَا الرِّيَاحَ لَوَاقِحَ فَأَنزَلْنَا مِنَ السَّمَاءِ مَاءً فَأَسْقَيْنَاكُمُوهُ وَمَا أَنتُمْ لَهُ بِخَازِنِينَ (22)
Và TA gởi những luồng gió gieo tinh và cho mưa từ trên trời xuống. Rồi TA ban nó cho các ngươi dùng để uống nhưng các ngươi không phải là chủ nhân giữ kho chứa của nó
وَإِنَّا لَنَحْنُ نُحْيِي وَنُمِيتُ وَنَحْنُ الْوَارِثُونَ (23)
Và quả thật, chính TA làm cho sống và gây cho chết và chính TA là Đấng Thừa kế
وَلَقَدْ عَلِمْنَا الْمُسْتَقْدِمِينَ مِنكُمْ وَلَقَدْ عَلِمْنَا الْمُسْتَأْخِرِينَ (24)
Và chắc chắn, TA biết trong các ngươi ai là những người đã qua đời và ai là những người còn sống sót
وَإِنَّ رَبَّكَ هُوَ يَحْشُرُهُمْ ۚ إِنَّهُ حَكِيمٌ عَلِيمٌ (25)
Và quả thật, Thượng Đế (Allah) của Ngươi sẽ cho tập trung họ lại (để phán xét). Quả thật, Ngài Thông suốt, Biết (hết mọi vấn đề)
وَلَقَدْ خَلَقْنَا الْإِنسَانَ مِن صَلْصَالٍ مِّنْ حَمَإٍ مَّسْنُونٍ (26)
Và quả thật, TA đã tạo hóa con người bằng đất sét khô, lấy từ loại đất sét nhào nặn được
وَالْجَانَّ خَلَقْنَاهُ مِن قَبْلُ مِن نَّارِ السَّمُومِ (27)
Và Jaann (tổ tiên của loài Jinn), TA đã tạo nó trước đây bằng hơi lửa
وَإِذْ قَالَ رَبُّكَ لِلْمَلَائِكَةِ إِنِّي خَالِقٌ بَشَرًا مِّن صَلْصَالٍ مِّنْ حَمَإٍ مَّسْنُونٍ (28)
Và (hãy nhớ lại) khi Thượng Đế (Allah) của Ngươi (Muhammad) đã bảo các Thiên Thần: “TA sắp tạo một người phàm làm bằng đất sét khô, lấy từ đất sét nhào nặn được
فَإِذَا سَوَّيْتُهُ وَنَفَخْتُ فِيهِ مِن رُّوحِي فَقَعُوا لَهُ سَاجِدِينَ (29)
Rồi khi TA uốn nắn Y (Adam) thành hình thể và thổi vào Y Ruh (Tinh thần) của TA, các ngươi hãy sụp lạy Y
فَسَجَدَ الْمَلَائِكَةُ كُلُّهُمْ أَجْمَعُونَ (30)
Do đó, tất cả các Thiên Thần đồng quỳ lạy
إِلَّا إِبْلِيسَ أَبَىٰ أَن يَكُونَ مَعَ السَّاجِدِينَ (31)
Ngoại trừ Iblis. Nó từ chối, không chịu nhập chung với những vị phủ phục
قَالَ يَا إِبْلِيسُ مَا لَكَ أَلَّا تَكُونَ مَعَ السَّاجِدِينَ (32)
(Allah) bảo: “Hỡi Iblis nhà ngươi có chuyện gì, tại sao nhà ngươi không chịu nhập chung với những vị phủ phục?”
قَالَ لَمْ أَكُن لِّأَسْجُدَ لِبَشَرٍ خَلَقْتَهُ مِن صَلْصَالٍ مِّنْ حَمَإٍ مَّسْنُونٍ (33)
(Iblis đáp) thưa: “Bề tôi không phải là kẻ quỳ lạy một người phàm mà Ngài đã tạo bằng đất sét khô lấy từ đất sét nhào nặn được.”
قَالَ فَاخْرُجْ مِنْهَا فَإِنَّكَ رَجِيمٌ (34)
(Allah) phán: Hãy đi ra khỏi đó (Vườn Trời); nhà ngươi là một tên đáng bị trục xuất
وَإِنَّ عَلَيْكَ اللَّعْنَةَ إِلَىٰ يَوْمِ الدِّينِ (35)
Và chắc chắn nhà ngươi sẽ bị nguyền rủa cho đến Ngày Phán xử
قَالَ رَبِّ فَأَنظِرْنِي إِلَىٰ يَوْمِ يُبْعَثُونَ (36)
(Iblis) thưa: “Lạy Thượng Đế (Allah) của bề tôi! Xin Ngài triển hạn cho bề tôi tận đến Ngày (người chết) sẽ được dựng sống lại.”
قَالَ فَإِنَّكَ مِنَ الْمُنظَرِينَ (37)
(Allah) phán: Vậy thì nhà ngươi là một tên được triển hạn
إِلَىٰ يَوْمِ الْوَقْتِ الْمَعْلُومِ (38)
Cho đến Ngày của thời gian qui định
قَالَ رَبِّ بِمَا أَغْوَيْتَنِي لَأُزَيِّنَنَّ لَهُمْ فِي الْأَرْضِ وَلَأُغْوِيَنَّهُمْ أَجْمَعِينَ (39)
(Iblis) thưa: “Lạy Thượng Đế (Allah) của bề tôi! Bởi vì Ngài xua đuổi bề tôi nên bề tôi sẽ tô điểm nó (tội lỗi) thành xinh đẹp đối với chúng (nhân loại) trên trái đất và bề tôi sẽ làm cho toàn thể bọn chúng lầm lạc
إِلَّا عِبَادَكَ مِنْهُمُ الْمُخْلَصِينَ (40)
“Ngoại trừ ai trong bọn chúng là bề tôi trung trinh của Ngài.”
قَالَ هَٰذَا صِرَاطٌ عَلَيَّ مُسْتَقِيمٌ (41)
(Allah) phán: Đây là con đường ngay thẳng dẫn đến TA
إِنَّ عِبَادِي لَيْسَ لَكَ عَلَيْهِمْ سُلْطَانٌ إِلَّا مَنِ اتَّبَعَكَ مِنَ الْغَاوِينَ (42)
Quả thật, nhà ngươi không có quỵền đối với các bề tôi của TA ngoại trừ ai trong bọn họ là những kẻ lầm lạc tuân theo ngươi
وَإِنَّ جَهَنَّمَ لَمَوْعِدُهُمْ أَجْمَعِينَ (43)
Và quả thật, hỏa ngục là điểm hẹn cho toàn thể bọn chúng
لَهَا سَبْعَةُ أَبْوَابٍ لِّكُلِّ بَابٍ مِّنْهُمْ جُزْءٌ مَّقْسُومٌ (44)
Nó có bảy cửa đi vào. Đi vào mỗi cửa sẽ là một loại (tội nhân) nhất định của bọn chúng
إِنَّ الْمُتَّقِينَ فِي جَنَّاتٍ وَعُيُونٍ (45)
Quả thật, những người sợ Allah sẽ ở trong các Ngôi Vườn (thiên đàng) có suối nước trong
ادْخُلُوهَا بِسَلَامٍ آمِنِينَ (46)
(Lời nghinh đón họ sẽ là:) “Quí vị hãy bước vào (thiên đàng) với sự Bằng an Yên ổn.”
وَنَزَعْنَا مَا فِي صُدُورِهِم مِّنْ غِلٍّ إِخْوَانًا عَلَىٰ سُرُرٍ مُّتَقَابِلِينَ (47)
Và TA sẽ tẩy xóa nỗi oán thù khỏi lòng họ; họ sẽ là anh em với nhau, nằm nghỉ trên những chiếc tràng kỷ, mặt nhìn mặt (vui vầy)
لَا يَمَسُّهُمْ فِيهَا نَصَبٌ وَمَا هُم مِّنْهَا بِمُخْرَجِينَ (48)
Trong đó, họ sẽ không cồn cảm giác mệt mỏi và không bị mời ra
۞ نَبِّئْ عِبَادِي أَنِّي أَنَا الْغَفُورُ الرَّحِيمُ (49)
(Hỡi Muhammad) hãy báo cho bề tôi của TA biết (rằng) TA đây là Đấng Hằng Tha Thứ, Rất Mực Khoan Dung
وَأَنَّ عَذَابِي هُوَ الْعَذَابُ الْأَلِيمُ (50)
Nhưng sự trừng phạt của TA cũng sẽ rất đau đớn
وَنَبِّئْهُمْ عَن ضَيْفِ إِبْرَاهِيمَ (51)
Và hãy báo cho họ (mọi người) biết về những vị khách của Ibrahim
إِذْ دَخَلُوا عَلَيْهِ فَقَالُوا سَلَامًا قَالَ إِنَّا مِنكُمْ وَجِلُونَ (52)
Khi vào gặp Người, họ lên tiếng chào: “Bằng an” Y đáp: Và hãy báo cho họ (mọi người) biết về những vị khách của Ibrahim. "Chúng tôi sợ quí vị
قَالُوا لَا تَوْجَلْ إِنَّا نُبَشِّرُكَ بِغُلَامٍ عَلِيمٍ (53)
Họ bảo: "Đừng sợ! Chúng tôi mang tin mừng đến cho ông về một đứa con trai được ban cho kiến thức
قَالَ أَبَشَّرْتُمُونِي عَلَىٰ أَن مَّسَّنِيَ الْكِبَرُ فَبِمَ تُبَشِّرُونَ (54)
(Ibrahim) đáp: “Phải chăng quí vị mang tin mừng đến cho tôi khi tôi đã về già? Vậy tin mừng về việc gì vậy?”
قَالُوا بَشَّرْنَاكَ بِالْحَقِّ فَلَا تَكُن مِّنَ الْقَانِطِينَ (55)
Họ bảo: “Chúng tôi mang tin mừng đến cho ông thật đấy. Bởi thế, chớ nên tuyệt vọng.”
قَالَ وَمَن يَقْنَطُ مِن رَّحْمَةِ رَبِّهِ إِلَّا الضَّالُّونَ (56)
(Ibrahim) đáp: “Và những ai tuyệt vọng nơi lòng Khoan Dung của Thượng Đế của mình thì đó là những kẻ lầm lạc?”
قَالَ فَمَا خَطْبُكُمْ أَيُّهَا الْمُرْسَلُونَ (57)
(Ibrahim) tiếp: “Vậy quí vị đến gặp tôi có chuyện gì, hỡi các vị Sứ (của Allah?)”
قَالُوا إِنَّا أُرْسِلْنَا إِلَىٰ قَوْمٍ مُّجْرِمِينَ (58)
Họ bảo: "Quả thật, chúng tôi được phái cử đến với một đám người tội lỗi
إِلَّا آلَ لُوطٍ إِنَّا لَمُنَجُّوهُمْ أَجْمَعِينَ (59)
Ngoại trừ gia đình của Lut mà chúng tôi có nhiệm vụ phải giải cứu tất cả
إِلَّا امْرَأَتَهُ قَدَّرْنَا ۙ إِنَّهَا لَمِنَ الْغَابِرِينَ (60)
“Trừ người vợ của Y (Lut) mà chúng tôi đã quyết định sẽ nằm trong số người tri trệ đằng sau.”
فَلَمَّا جَاءَ آلَ لُوطٍ الْمُرْسَلُونَ (61)
Bởi thế, khi những vị Sứ (của Allah) vào gặp gia đình của Lut
قَالَ إِنَّكُمْ قَوْمٌ مُّنكَرُونَ (62)
Y bảo: “Quả thật quí vị là những người lạ mặt.”
قَالُوا بَلْ جِئْنَاكَ بِمَا كَانُوا فِيهِ يَمْتَرُونَ (63)
Họ đáp: “Không, chúng tôi đến gặp ông để giải quyết điều (trừng phạt) mà những kẻ không tin hãy còn nghi ngờ
وَأَتَيْنَاكَ بِالْحَقِّ وَإِنَّا لَصَادِقُونَ (64)
“Và chúng tôi mang sự thật (về sự trừng phạt) đến cho ông. Và chúng tôi là những người nói thật
فَأَسْرِ بِأَهْلِكَ بِقِطْعٍ مِّنَ اللَّيْلِ وَاتَّبِعْ أَدْبَارَهُمْ وَلَا يَلْتَفِتْ مِنكُمْ أَحَدٌ وَامْضُوا حَيْثُ تُؤْمَرُونَ (65)
“Do đó, Ông và gia đình hãy ra đi vào phần cuối của ban đêm và đi đằng sau họ và chớ để cho bất cứ ai trong gia đình của ông ngoái nhìn lại phía sau và tiếp tục đi đến nơi mà các ông đã được truyền.”
وَقَضَيْنَا إِلَيْهِ ذَٰلِكَ الْأَمْرَ أَنَّ دَابِرَ هَٰؤُلَاءِ مَقْطُوعٌ مُّصْبِحِينَ (66)
Và TA cho Y biết quyết định đó rằng số người (tội lỗi) còn ở lại sau sẽ bị tiêu diệt trọn bộ vào buổi sáng
وَجَاءَ أَهْلُ الْمَدِينَةِ يَسْتَبْشِرُونَ (67)
Và người dân trong thành phố vui mừng chạy ùa đến (nhà của Lut)
قَالَ إِنَّ هَٰؤُلَاءِ ضَيْفِي فَلَا تَفْضَحُونِ (68)
(Lut) bảo (chúng): "Đây là những vị khách của ta, bởi thế chớ làm cho ta mất mặt (với họ)
وَاتَّقُوا اللَّهَ وَلَا تُخْزُونِ (69)
“Hãy sợ Allah và chớ hạ nhục ta!”
قَالُوا أَوَلَمْ نَنْهَكَ عَنِ الْعَالَمِينَ (70)
(Người dân của Lut) đáp: “Há chúng tôi đã không cấm ông tiếp xúc với mọi người ư?”
قَالَ هَٰؤُلَاءِ بَنَاتِي إِن كُنتُمْ فَاعِلِينَ (71)
(Lut) bảo: “Đây, các đứa con gái của ta, nếu các người muốn hành động (theo ý của các người)
لَعَمْرُكَ إِنَّهُمْ لَفِي سَكْرَتِهِمْ يَعْمَهُونَ (72)
(TA thề) bằng sinh mạng của Ngươi (hỡi Muhammad!) vì cuồng dâm mà chúng quanh quấn (như thế)
فَأَخَذَتْهُمُ الصَّيْحَةُ مُشْرِقِينَ (73)
Do đó, tiếng gầm dữ dội (của trận động đất) đã chụp bắt chúng vào lúc rạng đông
فَجَعَلْنَا عَالِيَهَا سَافِلَهَا وَأَمْطَرْنَا عَلَيْهِمْ حِجَارَةً مِّن سِجِّيلٍ (74)
Tiếp đó, TA lật ngược chúng ngổn ngang và đổ lên chúng những trận mưa đá diêm sinh cứng như đất sét nung
إِنَّ فِي ذَٰلِكَ لَآيَاتٍ لِّلْمُتَوَسِّمِينَ (75)
Chắc chắn trong biến cố đó, có những dấu hiệu cho những ai sáng suốt
وَإِنَّهَا لَبِسَبِيلٍ مُّقِيمٍ (76)
Và quả thật, chúng (những thị trấn sụp đổ) hãy còn nằm trên các con đường qua lại (giữa Makkah và Syria)
إِنَّ فِي ذَٰلِكَ لَآيَةً لِّلْمُؤْمِنِينَ (77)
Trong biến cố đó là một dấu hiệu cho những người có đức tin
وَإِن كَانَ أَصْحَابُ الْأَيْكَةِ لَظَالِمِينَ (78)
Và quả thật, đám người dân của khu rừng Aykah cũng là những kẻ làm điều sai quấy
فَانتَقَمْنَا مِنْهُمْ وَإِنَّهُمَا لَبِإِمَامٍ مُّبِينٍ (79)
Do đó, TA đã trừng phạt chúng. Và chắc chắn hai (thị trấn của) chúng (còn để lại di tích) trên một xa lộ thấy rõ
وَلَقَدْ كَذَّبَ أَصْحَابُ الْحِجْرِ الْمُرْسَلِينَ (80)
Và chắc chắn người dân của vùng núi Hijr đã phủ nhận những vị Sứ đã được cử đến (với họ)
وَآتَيْنَاهُمْ آيَاتِنَا فَكَانُوا عَنْهَا مُعْرِضِينَ (81)
Và TA đã trình bày cho họ những dấu hiệu của TA nhưng họ quay mặt cự tuyệt
وَكَانُوا يَنْحِتُونَ مِنَ الْجِبَالِ بُيُوتًا آمِنِينَ (82)
Và họ đã đục núi làm nhà (và cảm thấy) an toàn
فَأَخَذَتْهُمُ الصَّيْحَةُ مُصْبِحِينَ (83)
Nhưng tiếng gầm dữ dội đã chụp bắt họ vào buổi sáng
فَمَا أَغْنَىٰ عَنْهُم مَّا كَانُوا يَكْسِبُونَ (84)
Và những công trình mà họ đã làm ra chẳng giúp họ được gì
وَمَا خَلَقْنَا السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضَ وَمَا بَيْنَهُمَا إِلَّا بِالْحَقِّ ۗ وَإِنَّ السَّاعَةَ لَآتِيَةٌ ۖ فَاصْفَحِ الصَّفْحَ الْجَمِيلَ (85)
Và TA đã tạo hóa các tầng trời và trái đất và mọi thứ giữa trời đất chỉ vì Chân Lý. Và Giờ (Phán xử) chắc chắn sẽ xảy đến. Do đó, hãy bỏ qua (lỗi lầm của họ) một cách lịch sự
إِنَّ رَبَّكَ هُوَ الْخَلَّاقُ الْعَلِيمُ (86)
Quả thật, Thượng Đế của Ngươi là Đấng Tạo Hóa, Đấng Toàn Tri
وَلَقَدْ آتَيْنَاكَ سَبْعًا مِّنَ الْمَثَانِي وَالْقُرْآنَ الْعَظِيمَ (87)
Và TA đã ban cho Ngươi (Muhammad) bảy Câu Kinh nhắc đi nhắc lại và Quyển Qur'an vĩ đại
لَا تَمُدَّنَّ عَيْنَيْكَ إِلَىٰ مَا مَتَّعْنَا بِهِ أَزْوَاجًا مِّنْهُمْ وَلَا تَحْزَنْ عَلَيْهِمْ وَاخْفِضْ جَنَاحَكَ لِلْمُؤْمِنِينَ (88)
Nhưng chớ trố mắt nhìn những món vật mà TA đã ban cho những tầng lớp của họ hưởng thụ, cũng chớ buồn rầu giùm cho họ mà hãy rủ lòng thương của Ngươi xuống cho những người có đức tin
وَقُلْ إِنِّي أَنَا النَّذِيرُ الْمُبِينُ (89)
Và hãy bảo họ: “Quả thật Ta đây là một ngươi Báo trước công khai.”
كَمَا أَنزَلْنَا عَلَى الْمُقْتَسِمِينَ (90)
Giống như cái (hình phạt) mà TA đã giáng lên những kẻ chia rẽ
الَّذِينَ جَعَلُوا الْقُرْآنَ عِضِينَ (91)
Những ai đã chia mảnh quyển Qur'an
فَوَرَبِّكَ لَنَسْأَلَنَّهُمْ أَجْمَعِينَ (92)
Bởi thế, nhân danh Thượng Đế của Ngươi, Ngài sẽ hạch hỏi tất cả bọn chúng
عَمَّا كَانُوا يَعْمَلُونَ (93)
Về công việc mà chúng đã từng làm
فَاصْدَعْ بِمَا تُؤْمَرُ وَأَعْرِضْ عَنِ الْمُشْرِكِينَ (94)
Do đó, hãy công bố những điều mà Ngươi đã được chỉ thị và hãy lánh xa những kẻ tôn thờ đa thần
إِنَّا كَفَيْنَاكَ الْمُسْتَهْزِئِينَ (95)
Quả thật, TA đủ giúp Ngươi chống lại những kẻ nhạo báng
الَّذِينَ يَجْعَلُونَ مَعَ اللَّهِ إِلَٰهًا آخَرَ ۚ فَسَوْفَ يَعْلَمُونَ (96)
Những ai dựng một thần linh cùng với Allah; và rồi đây chúng sẽ sớm biết
وَلَقَدْ نَعْلَمُ أَنَّكَ يَضِيقُ صَدْرُكَ بِمَا يَقُولُونَ (97)
Và quả thật, TA biết lòng Ngươi se lại vì những điều chúng đã nói
فَسَبِّحْ بِحَمْدِ رَبِّكَ وَكُن مِّنَ السَّاجِدِينَ (98)
Nhưng hãy tán dương lời ca tụng Thượng Đế của Ngươi và trở thành một người phủ phục (Allah)
وَاعْبُدْ رَبَّكَ حَتَّىٰ يَأْتِيَكَ الْيَقِينُ (99)
Và hãy thờ phụng Thượng Đế của Ngươi cho đến khi điều kiên định (cái chết) xảy đến cho Ngươi
❮ السورة السابقة السورة التـالية ❯

قراءة المزيد من سور القرآن الكريم :

1- الفاتحة2- البقرة3- آل عمران
4- النساء5- المائدة6- الأنعام
7- الأعراف8- الأنفال9- التوبة
10- يونس11- هود12- يوسف
13- الرعد14- إبراهيم15- الحجر
16- النحل17- الإسراء18- الكهف
19- مريم20- طه21- الأنبياء
22- الحج23- المؤمنون24- النور
25- الفرقان26- الشعراء27- النمل
28- القصص29- العنكبوت30- الروم
31- لقمان32- السجدة33- الأحزاب
34- سبأ35- فاطر36- يس
37- الصافات38- ص39- الزمر
40- غافر41- فصلت42- الشورى
43- الزخرف44- الدخان45- الجاثية
46- الأحقاف47- محمد48- الفتح
49- الحجرات50- ق51- الذاريات
52- الطور53- النجم54- القمر
55- الرحمن56- الواقعة57- الحديد
58- المجادلة59- الحشر60- الممتحنة
61- الصف62- الجمعة63- المنافقون
64- التغابن65- الطلاق66- التحريم
67- الملك68- القلم69- الحاقة
70- المعارج71- نوح72- الجن
73- المزمل74- المدثر75- القيامة
76- الإنسان77- المرسلات78- النبأ
79- النازعات80- عبس81- التكوير
82- الإنفطار83- المطففين84- الانشقاق
85- البروج86- الطارق87- الأعلى
88- الغاشية89- الفجر90- البلد
91- الشمس92- الليل93- الضحى
94- الشرح95- التين96- العلق
97- القدر98- البينة99- الزلزلة
100- العاديات101- القارعة102- التكاثر
103- العصر104- الهمزة105- الفيل
106- قريش107- الماعون108- الكوثر
109- الكافرون110- النصر111- المسد
112- الإخلاص113- الفلق114- الناس